Đi theo con đường cách mạng khi mới 14 tuổi; Là 1 trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản ở tuổi 29; Là Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam khi tròn 37 tuổi; Suốt 1 đời vì Đảng, vì dân, vì cách mạng. Đó là chân dung Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người Anh Cả, vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một nhà chiến lược tài ba, nhà chỉ huy quân sự lỗi lạc, một con người tài đức, nhân nghĩa vẹn toàn. Nhiều mốc son lịch sử trong thế kỷ 20 của dân tộc in đậm tên tuổi của thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp.
VÕ NGUYÊN GIÁP- THIÊN TÀI QUÂN SỰ CỦA THẾ KỶ 20
Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh là: Võ Giáp, bí danh là: Văn, sinh ngày 25-8-1911 tại làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước.
Năm 1925-1926, ông tham gia phong trào học sinh yêu nước ở Trường Quốc học Huế và tiếp thu tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Năm 1927, Võ Nguyên Giáp gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1929, ông cùng một số đồng chí cải tổ Tân Việt thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, một trong 3 tổ chức đảng hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ 1934 đến 1940, Võ Nguyên Giáp dạy môn lịch sử ở Trường Trung học tư thục Thăng Long, viết báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên học sinh. Năm 1936, ông tham gia sáng lập và viết bài bằng tiếng Việt và tiếng Pháp cho các tờ báo của Đảng: Lao động, Tiếng nói chúng ta, Tiến lên, Thời báo Cờ Giải phóng.
Năm 1941, Võ Nguyên Giáp được giao phụ trách Ủy ban Quân sự của Tổng bộ Việt Minh, tham gia chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, xây dựng căn cứ địa Cao - Bắc - Lạng.
Tháng 12- 1944, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của QĐND Việt Nam. Ngay sau đó, Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ huy đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt - Nà Ngần (25 và 26-12-1944), mở đầu truyền thống “đánh thắng trận đầu”, “đánh tiêu diệt gọn” của QĐND Việt Nam.
Trong Kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945-1954, Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy các chiến dịch lớn: Chiến dịch Việt Bắc (từ 7-10 đến 20-12-1947), Chiến dịch Biên Giới (từ 16-9 đến 14-10-1950), Chiến dịch Trần Hưng Đạo (từ 25-12-1950 đến 17-1-1951), Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (từ 23-3 đến 7-4-1951), Chiến dịch Quang Trung (từ 28-5 đến 20-6-1951), Chiến dịch Hòa Bình (từ 10-12-1951 đến 25-2-1952), Chiến dịch Tây Bắc (từ 14-10 đến 10-12-1952), Chiến dịch Thượng Lào (từ 13-4 đến 3-5-1953), và đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ (13-3 đến 7-5-1954). Với quyết định thay đổi phương châm tác chiến từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”, trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành thắng lợi “Lừng lẫy năm châu- chấn động địa cầu” đưa đến việc ký kết hiệp nghị Geneva.
Trong cuộc kháng chiến chống Đế quốc Mỹ, 1954-1975, những kế hoạch chiến lược và phương án tác chiến của ông đã góp phần đánh bại các chiến lược của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Ngày 7-4-1975, Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh cho toàn quân “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa”, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đưa cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi rời vị trí lãnh đạo, quản lý, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn theo dõi cập nhật tình hình thời sự trong nước, thế giới và kịp thời đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước về những vấn đề quan trọng của quốc gia.
Trái tim vị Đại tướng của nhân dân Võ Nguyên Giáp “văn võ song toàn”, “đức tài trọn vẹn”, đã ngừng đập ngày 4-10-2013.
Với tài thao lược, đại tướng Võ Nguyên Giáp được xem như kiến trúc sư tài ba, một tướng lĩnh huyền thoại “những người hiếm hoi làm chuyển dịch dòng chảy lịch sử”, là một trong những danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ, một trong những thiên tài quân sự lớn nhất của thế kỷ 20./.